Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2013

Nguy cơ vỡ nợ thị trường thép



Đây là bài toán chưa có lời giải, bởi ngành thép vốn đã khó khăn về nguồn vốn lại càng khó khăn hơn khi SXKD càng ngày càng đình trệ. Trong tình trạng như vậy, nhưng một loạt chính sách sắp đưa vào áp dụng như tăng giá điện riêng cho ngành thép, xi măng, rồi đổi mới công nghệ chuẩn, cùng với Châu Mỹ, Châu Âu đang áp dụng thuế chống bán phá giá đối với thép xuất khẩu càng khiến các DN sinh sản thép có thể sẽ lâm vào phá sản. Gói tương trợ bất động sản 30.000 tỷ đồng là tia hy vọng cho ngành thép thoát ra khỏi tình trạng bế tắc, nhưng đến nay thị trường chưa có gì khởi sắc, thậm chí còn có chiều hướng xấu, nhiều DN đã, đang trước ngưỡng vỡ nợ.

Thị trường thép trong nước đang gặp nhiều khó khăn. Ảnh: Minh Hải


Theo Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), riêng mặt hàng thép xây dựng tháng 6 sản xuất đạt 376.125 tấn, giảm 4,72% so với tháng 5; tiêu thụ khoảng 350.945 tấn, giảm 9,2% so với tháng 5. Tính chung 6 tháng, các DN trong VSA sản xuất được hơn 2,2 triệu tấn, giảm 2,08% so với cùng kỳ năm 2012. Tuy nhiên, tổng số thép bán ra đạt gần 2,3 triệu tấn, tăng 1,52% so với 6 tháng đầu năm 2012. Tuy nhiên, con số đó không nói nên điều gì, bởi trượt giá đầu vào cho sinh sản cùng với giá cả tiêu dùng thị trường đều tăng cao.

Do không tiêu thụ được trong thời kì dài, các DN thép đã sinh sản cầm chừng. Sản phẩm thép xây dựng tính đến 30-6-2013 tồn kho khoảng 326.947 tấn, kéo theo lượng phôi thép tính đến tháng 5-2013 tồn khoảng 500.000 tấn (cả phôi sinh sản trong nước và nhập cảng). Lượng phôi thép tồn này đủ đáp ứng nhu cầu phôi cho các nhà máy cán thép trong nước. Tuy nhiên, khi một loạt các nhà máy như đanh thép Thái Nguyên, Việt Trung (Lào Cai), Tập đoàn Hòa Phát… đi vào hoạt động mà quốc gia đấu cho xuất khẩu thì lại nảy nguy cơ thiếu quặng, nhiên liệu cho sinh sản thép.

Theo đánh giá của Bộ công thương nghiệp, thời kì qua, ngành thép đã đáp ứng đủ, kịp thời về số lượng và chủng loại các sản phẩm thép cho nền kinh tế, không để xảy ra tình trạng thiếu thép. Sinh sản phôi thép, thép xây dựng, thép cán nguội, thép ống, tôn mạ và tôn phủ màu đã đáp ứng 100% nhu cầu sử dụng trong nước và đang hướng tới xuất khẩu một số sản phẩm. Tuy nhiên, ngành thép còn tả một số tồn tại như chưa cân đối nhu cầu sản phẩm, dẫn tới việc có một số sản phẩm cung vượt xa so với cầu trong khi có nhiều sản phẩm phải du nhập. Nhiều DN sinh sản thép với quy mô nhỏ, dùng công nghệ lạc hậu và chưa thân thiện với môi trường, đặc biệt là các chỉ số tiêu hao như tiêu hao than cốc (lò cao), điện năng và điện cực (lò điện hồ quang). Với chức năng quản lý ngành, thời kì qua Bộ công thương nghiệp đã chỉ đạo khai triển các dự án đầu tư thượng nguồn, tăng năng lực sản xuất phôi thép từ quặng sắt, giảm phụ thuộc vào phôi thép và thép phế du nhập, khuyến khích đầu tư một số dự án sản xuất thép tấm cán nóng (hiện thời mỗi năm nhập cảng khoảng 3-4 triệu tấn sản phẩm này/năm).

Theo VSA, dù thị trường đình trệ, DN thép vẫn phải sinh sản để tạo việc làm cho cần lao, cùng với đó vừa phải cạnh tranh với thép ngoại nhập, nên các DN SXKD thép phía Bắc liên tục giảm giá bán 300-500 đồng/kg, trong khi giá bán thép ở phía Nam có sự chênh lệch khá lớn. Điều đáng nói, trong khi các DN sản xuất thép phải ngừng sản xuất hoặc sản xuất cầm chừng thì lượng thép nhập cảng vẫn cao. Theo thống kê của Tổng cục thương chính, tổng lượng thép du nhập vào Việt Nam của 5 tháng đầu năm nay đạt hơn 5,3 triệu tấn, kim ngạch nhập khẩu đạt hơn 3,5 tỷ USD; trong đó, phôi thép là 175.408 tấn; thép tấm lá đen là hơn 2,1 triệu tấn; thép cuộn là 65.717 tấn; thép phế là hơn 1,2 triệu tấn. Trong khi, lượng thép xuất khẩu của Việt Nam cùng thời kỳ chỉ đạt hơn 1,2 triệu tấn, với kim ngạch hơn 1 tỷ USD. Đây là "báo động đỏ", đòi hỏi sự can thiệp kịp thời bằng các chính sách thiết thực, tạo bình đẳng cho SXKD cho thị trường thép trong nước.