- Chữa ho do ngoại cảm (ho gió): Dùng vài quả hồng bì (khoảng 20-30g), bổ đôi, hấp với đường, chia ra ăn trong ngày
+ Đáp : quất hồng bì là loài cây được trồng ở nhiều tỉnh miền Bắc nước ta để lấy quả ăn. Tuốt các bộ phận của cây, đều có thể dùng làm thuốc chữa bệnh. Hoặc dùng “Hoàng bì long nhãn diệp thang”: Lá hồng bì, lá nhãn, mỗi thứ 30g, dã cúc hoa 15g, sắc nước uống, mỗi tuần 3 lần.Lá kép mọc so le, gồm 5-13 lá chét, hình trái xoan, lá chét cuối hình trứng; nguyên hay hơi khía tai bèo, đầu nhọn, phía cuống lá hơi lệch; có nhiều điểm tuyến chứa dầu.
Hoa trắng mọc thành chùy ở ngọn, chùy thưa hoa, dài 25-50cm. Hồng bì là loài cây “thực dược lưỡng dụng” – vừa làm thực phẩm vừa làm thuốc. Trong điều kiện gia đình, có thể dùng quất hồng bì để chữa trị một số chứng bệnh theo những phương pháp như sau: - đề phòng cảm cúm: (1) Dùng lá quất hồng bì khô 6-10g (hoặc 20-30g tươi), sắc uống, liên tục 3-6 ngày.
Liều dùng hàng ngày: hạt 6-10g; rễ 10-20g. - Chữa ho gà: Dùng quả quất hồng bì, vỏ rễ dâu, cam thảo, mỗi thứ 10-12g, sắc nước uống trong ngày. - Chữa đau thắt dưới tim hoặc giun đũa chòi lên: Dùng quả quất hồng bì tươi, nhai và nuốt cả vỏ. - Bí tiểu tiện: Dùng lá quất hồng bì 4-5 lá, rượu 30-40ml, thêm nước sắc uống. Lá thường dùng tươi hoặc phơi khô, dùng làm thuốc với tên “hoàng bì diệp”; Quả có thể dùng tươi hoặc hái về, để nguyên hay bổ dọc, phơi nắng hay sấy khô, dùng làm thuốc với tên “hoàng bì quả”; hạt dùng làm thuốc với tên “hoàng bì quả hạch”; rễ gọi là “ hoàng bì căn”; vỏ rễ gọi là “hoàng bì căn bì”,.
Theo một thông tin về kết quả thí nghiệm lâm sàng: dùng hồng bì để điều trị lỵ amíp và lỵ trực trùng (kết hợp với khổ luyện tử, hòe hoa) cho kết quả tốt hơn thuốc tây ganidan và tetracyclin.
Thuộc họ Cam quít (Rutaceae). Hạt còn chữa rắn cắn. Dân gian thường dùng để nấu nước gội đầu, cho sạch gầu và mượt tóc. Quả màu vàng, hình cầu, đường kính 15mm, có lông, 1-2 ngăn, chứa một hạt to; thịt quả ngọt thơm.
Cây còn có tên là “quất quất hồng bì”, “hoàng bì” , “kim đạn tử”, “do bì”, “do mai”,. - Chữa sán khí (thiên truỵ): Dùng vỏ rễ quất hồng bì 60g, tiểu hồi hương 15g, sắc lấy nước, thêm chút rượu trắng vào uống ấm, ngày 1-2 lần.
Theo Đông y: + Lá (hoàng bì diệp) có vị đắng và cay, tính bình hơi ấm; Có tác dụng giải cảm, hạ sốt, long đờm và giảm ho
Hoặc dùng 20g quả khô (hay 50g quả tươi) sắc nước uống vào lúc đói.Tên khoa học là Clausena lansium (Lour. Về mặt thực vật, hồng bì là một loại cây gỗ, cao 3-5m, cành non hơi ráp, xù xì do có nhiều hạch (tuyến). ]. Dùng chữa tiêu hóa kém, buồn nôn, ho, ho gà. - Chữa đau dạ dày, đau bụng co thắt: Dùng hạt quất hồng bì, phơi hay sấy khô = sao thơm, tán mịn ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 6-10g; chiêu bằng nước hoặc rượu nhạt.
Liều dùng hàng ngày 20-40g. Liều dùng hàng ngày 6-10g quả khô. Mùa hoa: tháng 4; mùa quả: 6-10. Kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy: Lá quất hồng bì có tác dụng bảo vệ tế bào gan; hạ đường huyết và lipid huyết; kìm hãm sự phát triển của một vài chủng ký sinh trùng sốt rét, tụ cầu vàng và một số vi khuẩn gây bệnh đường ruột.
Có tác dụng giảm đau, xúc tiến tiêu hóa, dùng chữa đau dạ dày, đau vùng thượng vị, đau bụng co thắt. Có tác dụng chống ho, long đờm, kích thích tiêu hóa, cầm nôn. Dùng chữa cảm mạo, sốt, sốt rét, ho. Rễ còn dùng chữa cảm mạo, phong thấp, dùng cho nữ giới sau khi đẻ. + Quả (hoàng bì quả) có vị ngọt và chua, tính bình hơi ấm. Quất hồng bì là loài cây “thực dược lưỡng dụng” – vừa làm thực phẩm vừa làm thuốc.
- Chữa rắn cắn: Dùng hạt quất hồng bì nhai nát, nuốt nước, bã đắp lên nơi rắn cắn. + Hạt (hoàng bì quả hạch) và rễ (hoàng bì căn) có vị đắng, cay, the, tính ấm. ) Skeels [Clausena wampi (Blanco) Oliv.